Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói với dân chúng về nước Thiên Chúa và chữa lành những kẻ cần được cứu chữa. Vậy khi đã xế chiều, nhóm mười hai đến thưa Người rằng: “Xin Thầy giải tán dân chúng, để họ đi vào trong các làng mạc và trại quanh đây mà trú ngụ và kiếm thức ăn, vì chúng ta đang ở nơi hoang địa”.
Nhưng Người nói với các ông: “Các con hãy cho họ ăn đi”. Các ông trả lời: “Chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá, trừ phi chúng con phải đi mua thức ăn cho cả đám đông này”. Số đàn ông độ năm ngàn.
Người nói với các môn đệ rằng: “Hãy cho họ ngồi xuống từng nhóm độ năm mươi người”. Các ông đã làm như thế, và bảo tất cả ngồi xuống.
Chúa Giêsu cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, nhìn lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ để các ông dọn ra cho dân chúng. Tất cả đều ăn no nê, và người ta thu lượm được mười hai thúng miếng vụn còn dư lại.
1. Tất cả được no nê.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Từ năm chiếc bánh và hai con cá, Đức Giêsu đã làm phép lạ cho chừng năm nghìn đàn ông ăn, nếu kể cả đàn bà, trẻ em, có lẽ hàng chục ngàn người ăn no nê, còn dư mười hai thúng.
Thiên Chúa đã quan tâm đặc biệt ban cho con người của ăn, của uống mỹ vị thật đầy đủ, để sống và sống dồi dào.
1- Để sống đời này: Thiên Chúa đã dựng nên một vũ trụ rất phong phú cho con người hưởng dùng. Chúng ta thử xem:
Về của uống: Nguồn nước trong vũ trụ hầu như vô tận, trên mặt đất cũng như dưới lòng đất và cả bầu khí quyển đầy hơi nước, cung cấp cho người hít thở, ăn uống, tắm rửa… Toàn thân con người đã có 70% là nước.
Về của ăn: Thiên Chúa cũng trao cho con người thống trị và hưởng dùng tất cả một vũ trụ chất chứa đầy nguồn lợi thiên nhiên: Bao nhiêu chim trời, cá biển, cây cối, hoa mầu, bao nhiêu súc vật, quặng mỏ. Còn thứ gì cần thiết bằng hơi thở và ánh sáng, thế mà có cái gì dư thừa bằng không khí và ánh mặt trời. Theo các nhà địa chất, chỉ một túi dầu ở Kôweit, tính ra khai thác cả trăm năm cũng chưa cạn.
Chúng ta có thể nói: Thiên Chúa đã nuôi dưỡng con người như một ông hoàng phong lưu sung sướng sống trong cảnh địa đàng. Ngài đã phán: “Các ngươi hãy thống trị địa cầu, hãy làm chủ cá biển, chim trời và muôn loài trên mặt đất” (Stk. 1, 6).
Sở dĩ loài người thiếu thốn, đói khát, là tại con người như đứa con đi hoang, phá tán của cải Thiên Chúa ban: Tháng 11/ 1979. Đài BBC tiết lộ Mỹ tổn phí sáu mươi tỷ đô và hai vạn quân trong chiến tranh Việt Nam từ 1965-1969. Một phá tán kinh khủng sau thế chiến thứ II. Báo chí tính tiền đổ vào bom đạn ở miền Nam, chưa kể miền Bắc, có thể mua vàng chất đầy một đoàn xe tải đậu sát nhau dài từ Vũng Tàu tới Sài Gòn. Còn trong thế chiến thứ II, người ta tính số tiền phung phí đánh nhau, nếu lấy chia cho mỗi người trên thế giới, sẽ được một nhà lầu và một xe hơi. Ngày nay, theo phát giác của một sử gia Thụy Điển, mỗi phút trên thế giới chi phí quốc phòng là một triệu đô. Ông Mác Namara, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới mười một năm, đã cảnh giác: Mỗi năm thế giới chi phí vô ích vào vũ khí ba mươi tỷ đô với năm trăm nghìn bác học vàkỹ sư ! Trong khi hơn bốn tỷ người phải thiếu thốn khổ cực và chết đói.
Tiếng than của chính Đức Kitô đến nay vẫn còn kêu lên: “Ta thương đám dân này vì đã bị đói lả”. Đói lả phần xác, ta có thể đổ lỗi cho xã hội bất công, còn đói lả phần hồn, không đổ lỗi cho ai, mà phải đấm ngực mình ăn năn để lo lãnh nhận của ăn đời đời.
2- Để sống đời đời: Thiên Chúa đã ban cho ta của ăn của uống vô cùng lạ lùng, vô cùng cao quý.
Vô cùng lạ lùng vì đây là kỳ công của Thiên Chúa. Khi dựng nên trời đất muôn vật nuôi xác con người, Thiên Chúa chỉ làm trong sáu ngày, hay đúng hơn: Chỉ phán một lời. Nhưng khi nuôi hồn, Thiên Chúa đã phải làm việc thật lâu dài và cực khổ.
Lâu dài vì từ khi tổ tông Adam sa ngã, Thiên Chúa đã phải tuyển chọn hàng trăm các tổ phụ, các Vua, các tiên tri để dậy dỗ, chăm sóc, hướng dẫn, nuôi dưỡng tinh thần loài người trải qua hàng ngàn thế hệ. Thiên Chúa vẫn chưa hài lòng, Ngài còn sai Con Một yêu dấu xuống làm thân phận như tôi tớ trong ba mươi ba năm. Cũng chưa xong, Con Một Ngài vẫn tiếp tục làm việc để nuôi linh hồn người ta cho đến tận thế: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Cực khổ vì các tổ phụ, tiên tri đều phải chịu bao nhiêu gian lao, thử thách khi hướng dẫn con người. Nhưng, chưa thấm vào đâu với sự hy sinh cực khổ của Con Thiên Chúa. Đức Giêsu đã chịu khổ đến nổi đổ mồ hôi máu, phải hiến mạng sống chịu đóng đinh thập giá nhục nhã như tên trộm cướp trọng tội. Để yêu thương nhân loại hơn nữa, Người còn biến bánh và rượu thành Mình Máu Người làm của nuôi linh hồn ta được sống đời đời. Có thể nói, Thiên Chúa đã dồn hết kỳ công vào việc lập phép Thánh Thể để nuôi sống ta đời đời. Cảm nghiệm được lòng thương yêu vô cùng lạ lùng đó, Thánh Tôma đã kêu lên: “Ôi nhiệm tích vô cùng cao quý, nào chúng ta phục bái tôn thờ…”.
Vô cùng cao quý: Vì của ăn, của uống đây là chính Thịt và Máu Thánh Đức Giêsu như Người đã xác nhận: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống, ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời, và bánh tôi ban chính là thịt tôi… Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga. 6, 51-54). Đối với người Do Thái, không bánh nào cao trọng bằng bánh man na vì Thiên Chúa đã ban cho tổ tiên họ ăn suốt 40 năm đi trong sa mạc để về Đất Hứa. Thế mà, Đức Giêsu bảo họ: “Tổ tiên các ông đã ăn man na và đã chết. Ai ăn bánh này khỏi phải chết” (Ga. 6, 49). Như thế, Bánh Thịt Đức Giêsu có một giá trị đời đời vì bánh này là chính sự sống của Con Thiên Chúa. Khi chúng ta ăn bánh này, chúng ta được sống bằng chính sự sống vô cùng cao trọng của Thiên Chúa.
Còn đối với người Samaria, không một thứ nước nào bằng nước giếng tổ phụ Giacóp. Thế mà, Đức Giêsu đã tuyên bố: “Ai uống nước giếng này vẫn cón khát, ai uống nước Ta ban, sẽ không bao giờ khát nữa”. Nước Người ban chính là Máu Thánh Người.
Ngay cả bánh Đức Giêsu làm phép lạ cho năm nghìn người ăn, cũng chỉ là bánh nuôi thân xác. Họ ăn rồi, vẫn còn đói. Nên họ đã đi tìm kiếm Người để ăn nữa. Khi gặp họ, Người khuyên: “Các ông hãy ra công làm việc… để có lương thực hằng sống đem lại phúc trường sinh” (Ga. 6, 27). Lương thực hằng sống Người ban: “Trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao cho các môn đệ và nói: Này là Mình Thầy … Cùng một thể thức ấy, vào cuối bữa ăn, Người cầm lấy chén rượu và nói: “Này là chén Máu Thầy …”. Người đã nộp mình thiết lập một tế lễ mới thay cho các tế lễ cũ của loài người. Chúa chẳng yêu thích tế lễ cũ vì chúng là những thứ vô tri vô giác, là những loài vật chiên bò chỉ có tế lễ mới của Đức Giêsu: “Này con xin đến làm theo ý Cha” với lòng tan nát khiêm cung, với công lý và đức nghĩa của Người mới làm đẹp lòng Cha và được Cha chấp nhận.
Lạy Chúa, xin cho con ra công làm việc để có lương thực nuôi xác và nuôi hồn con hằng ngày. Xin cho con biết rước Mình Máu Thánh Chúa để loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, mới mong được Chúa ngự đến với con trong ngày quang lâm vinh phúc đời đời.
2. Đời sống mới
Phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay có thể giúp chúng ta khám phá ra một vài khía cạnh chính yếu của bí tích Thánh Thể. Qua bài đọc thứ I chúng ta thấy Melkisêđê là một nhân vật lạ lùng. Ông là vua Salem, đã dùng bánh và rượu để dâng lễ tạ ơn Thiên Chúa trong thời đại mà truyền thống chỉ dùng chiên bò làm lễ vật. Ông vừa là vua lại vừa là thượng tế, và dường như ông đóng vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Từ đó, truyền thống Thánh Kinh đã coi ông như là kiểu mẫu cho chức tư tế và các cộng đoàn tín hữu, đã noi gương ông, dâng bánh và rượu như lễ vật tạ ơn Thiên Chúa để lãnh nhận những ơn phúc lành Thiên Chúa ban cho.
Tiếp đến qua bài Phúc Âm thánh Luca kể lại phép lạ bánh hoá nhiều. Chúa Giêsu đã nuôi 5000 người bằng 5 chiếc bánh và 2 con cá. Phép lạ này là hình ảnh của bí tích Thánh Thể mà Ngài sẽ lập sau này. Ngài đã dùng chính thịt máu Ngài qua hình bánh rượu để làm lương thực nuôi dưỡng chúng ta.
Sau cùng thánh Phaolô đã kể lại việc Chúa Giêsu lập phép Thánh Thể vào chiều ngày thứ năm tuần thánh trước khi Ngài chịu nạn. Rồi thánh nhân đã kết luận: Mỗi lần anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chết cho đến khi Ngài lại đến. Vì thế, khi rước lễ thì chính Chúa hiện diện trong chúng ta, kết hiệp chúng ta lại với nhau và cùng nhau kết hiệp với Thiên Chúa, đưa chúng ta từ cõi chết đến nguồn sự sống vĩnh cửu. Chính Ngài đã phá huỷ để tái lập lại chúng ta nên con người mới.
Một sự chết đi và sống lại được thực hiện trong chính tâm hồn chúng ta. Điều đó xem ra có vẻ lạ lùng, nhưng lại là cách thức sinh tồn của vạn vật. Hạt giống không mục nát, không chết đi thì làm sao cây lúa có thể nẩy sinh. Con ngài không tự huỷ thì làm sao nở thành một cánh bướm xinh tươi. Chính nhờ vào sự chết đi mà tạo vật được tiến hoá.
Với chúng ta cũng vậy, khi chúng ta rước lấy Mình Thánh Đức Kitô là chúng ta thực hiện một cuộc tái sinh mới. Chúng ta từ bỏ bản thân để được kết hợp với Đức Kitô. Hơn thế nữa, Thánh Thể còn nuôi dưỡng và thực hiện trong chúng ta một đời sống mới. Người tín hữu phải biết chấp hành những biến đổi do Đức Kitô đem lại, phải từ bỏ mình để làm một cuộc mạo hiểm, vì chúng ta không biết được điều gì Đức Kitô thực hiện trong chúng ta. Đó là một đời sống mới mà chúng ta chưa bao giờ trải qua.
Bởi vậy, với lương thực thần linh bổ dưỡng chúng ta hãy biêt khử trừ những thói hư tật xấu để nhờ đó chúng ta sẽ được mặc lấy con người mới theo hình ảnh của Chúa.
3. Hồng ân Thánh Thể – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Không gì quý bằng sự sống. Dù bị thiên tai càn quét hết ruộng vườn, tài sản, nhà cửa, tiền bạc, nhưng người nhà chưa phải chết thì vẫn còn may.
Được sống trên cõi đời là một hồng phúc lớn nhất, là một ân huệ vượt trên hết mọi ân huệ. Sách Giảng Viên viết: “Thà làm một con chó sống còn hơn làm một con sư tử chết.” (Giảng Viên 9,4). Thà làm một con chuột sống còn hơn một con voi chết! Thế nên người ta thường nói: “Mạng sống quý hơn đống vàng.”
Vì yêu thương con người vô hạn nên Thiên Chúa muốn dành cho họ quà tặng cao quý nhất, đó là sự sống; và Thiên Chúa không chỉ ban sự sống sinh vật (sự sống tự nhiên) mà còn thông ban cả Sự Sống thần linh của chính Thiên Chúa cho con người nữa.
Thông ban Sự Sống thần linh
Thiên Chúa Cha là Cội Nguồn của Sự Sống. Sự Sống bắt nguồn từ Chúa Cha, rồi Chúa Cha thông ban Sự Sống của mình cho Chúa Con (Chúa Cha nhiệm sinh Chúa Con) và Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu xác nhận sự sống của mình từ Chúa Cha mà đến: “Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha.” (Ga 6, 57)
Một khi nhận được sự sống từ Chúa Cha, Chúa Giêsu không giữ lại cho riêng mình, nhưng tìm cách thông truyền Sự Sống cao quý ấy cho nhân loại.
Bằng cách nào?
Muốn cho cành nho rừng tiếp nhận được sự sống của cây nho vườn, thì nó phải được tháp nối để nên một với cây nho vườn.
Muốn cho một bàn tay bị cắt lìa thân được tiếp nhận sự sống từ thân thể thì bàn tay đó phải được ghép nối vào thân thể, trở nên một với thân thể.
Vậy muốn cho loài người tiếp nhận được Sự Sống của Chúa Giêsu thì phải làm cho họ nên một với Chúa Giêsu.
Thế nên, Chúa Giêsu lập nên bí tích Thánh Thể, hiến ban Thịt và Máu Người, dưới hình bánh rượu, làm của ăn cho nhân loại, để cho những ai lãnh nhận Mình Máu thánh Người thì được nên một với Người, được ở lại trong Người:“Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy.”
Những ai “ở lại trong Chúa Giêsu và có Chúa Giêsu ở lại trong người ấy”, thì kẻ ấy nên một với Chúa Giêsu và tất nhiên Sự Sống của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho người ấy.
Điều tuyệt vời là Sự Sống mà Chúa Giêsu thông ban cho những ai tiếp nhận Mình Máu Người, không phải là sự sống sinh vật có thể bị lụi tàn theo năm tháng mà là Sự Sống vĩnh cửu không bao giờ tàn phai.
“Đức Giêsu nói với người Do-thái rằng: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.” (Ga 6, 51)
“Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết.” (Ga 6, 54)
Thế là thông qua việc tiếp nhận Mình và Máu Chúa Giêsu khi rước lễ, con người được nên “cùng một thân mình, cùng một dòng máu” với Chúa Giêsu và do đó, Sự Sống thần linh của Chúa Giêsu sẽ được thông ban cho họ. Họ sẽ được sống đời đời.
Biến đổi con người thành Chúa Giêsu
Ngoài ra, khi tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu trong Bí Tích thánh thể, chúng ta còn được biến đổi để nên một Giêsu khác. Thánh Giáo hoàng Lê-ô Cả khẳng định:
“Thực thế, chúng ta thông phần Mình và Máu Chúa Kitô là để được biến thành Đấng chúng ta rước lấy.” (Trích bài giảng của thánh Lê-ô cả giáo hoàng, trong bài đọc kinh sách ngày thứ tư, tuần 2 phục sinh)
Giáo huấn của Hội Thánh còn dạy cho biết nhờ tiếp nhận Mình Máu thánh Chúa Giêsu, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa: “Khi bạn ăn uống Mình và Máu Đức Kitô, bạn nên một với Người, cùng một thân mình, cùng một dòng máu. Như thế, chúng ta trở thành những người mang Đức Kitô, có Mình Máu Người thấm nhập khắp toàn thân. Nhờ vậy, theo lời thánh Phê-rô, chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa.” (trích bài giáo huấn cho các tân tòng tại Giê-ru-sa-lem trong bài đọc kinh sách ngày thứ bảy, tuần bát nhật phục sinh)
Lạy Chúa Giêsu,
Hồng ân Thánh Thể Chúa ban thật vô cùng lớn lao và quý báu nhưng tiếc thay, nhiều người không nhận biết nên tỏ ra hững hờ.
Xin cho tâm hồn chúng con tràn đầy hoan lạc trước hồng phúc vô giá và khao khát tiếp nhận hồng ân nầy với hết lòng cảm tạ tri ân.
4. Bí tích tình yêu
Ngay từ thuở tạo thiên lập địa, Thiên Chúa dựng nên con người và ban cho con người sự sống của chính Thiên Chúa. Họ được thông ban sự sống thần linh, được đặt vào trong vườn địa đàng, được chăm sóc và cai quản mọi loài Chúa dựng nên. Họ được toàn quyền để phát triển sự sống của chính Thiên Chúa nhờ muôn vật Chúa ban trừ cây biết lành biết dữ. Trải qua dòng lịch sử, con người vẫn luôn ý thức rằng: sự sống của chính mình là sự sống của Thiên Chúa ban cho cho dù tội lỗi có là lu mờ đi niềm tín thác vào Thiên Chúa. Trong thời Tân Ước, Đức Giêsu đã đến để loan báo tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, để khẳng định rằng con người luôn được Thiên Chúa yêu thương mặc cho tội lỗi có cản lối. Cao điểm của tình yêu Thiên Chúa là cái chết đau đớn của Con Thiên Chúa trên Thập giá, Ngài đã lấy hết máu và nước mình ra để minh chứng tình yêu. Yêu đến cùng cực, yêu đến điên cuồng. Tình yêu đó cũng được diễn tả cách đặc biệt bằng việc Đức Giêsu lấy thịt và máu mình để nuôi sống và cứu chữa nhân loại. Khi lập Bí Tích Thánh Thể trong bữa tiệc ly Đức Giêsu cầm lấy bánh và nói “Này là Mình Thầy”, và cầm lấy chén rượu và nói “Này là Máu Thầy”. Còn tình yêu nào cao hơn tình yêu Thiên Chúa trong việc Thiên Chúa hiến thân, hiến thân hoàn toàn cho nhân loại. Không phải trong bữa tiệc ly ChúaGiêsu cao hứng rồi lập Bí Tích Thánh Thể nhưng mặc khải Thiên Chúa ban Thịt và Máu Ngài cho nhân loại đã là ý định đời đời nơi Thiên Chúa và đã được mặc khải tiệm tiến trong Cựu Ước với việc Thiên Chúa ban Manna cho dân Do Thái trong sa mạc, ban cách dư tràn để nuôi dân chúng. Còn trong Tân Ước như trong bài Tin mừng hôm nay chúng ta đọc thấy Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều để nuôi dân chúng, họ đã ăn no nê mà lại còn dư đến 12 thúng đầy bánh vụn. Suy niệm bài Tin mừng hôm nay để chúng ta thấy được rằng Bí Tích Thánh Thể là bí tích tình yêu, một tình yêu nhưng không, một tình yêu tràn đầy.
Sau khi cho dân chúng no đầy thức ăn Lời Chúa và no đấy sức khoẻ thể lý bằng việc giảng dạy và chữa lành bệnh tật cho dân chúng thì đến lượt Chúa cho họ no đầy thức ăn để nuôi sống họ. Đọc Tin mừng ta thấy phát kiến nuôi đám đông dân chúng được đến từ Thiên Chúa, Ngài bảo “Chính anh em hãy cho họ ăn”. Trong tình yêu Ngài thấy được sự đói khát, sự thiếu thốn của dân chúng. Và Chúa Giêsu biết việc mình sắp thực hiện nhưng Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ cộng tác với Ngài trong công việc của Ngài. Trong Bí Tích Thánh Thể Chúa cũng nhờ tay các linh mục sau khi đã truyền phép thì phân phát chính Thịt và Máu Chúa cho dân chúng. Con người không có khả năng đòi hỏi một điều vượt quá sự mơ tưởng của mình. Nhưng trong Bí Tích Thánh Thể Thiên Chúa chẳng những ban những ơn ban mà còn ban chính Đấng ban ơn là chính Ngài. Cả linh mục lẫn Kitô hữu đều lãnh nhận hồng ân cao vời được phát kiến từ tình yêu Thiên Chúa. Mặt khác, Bí Tích Thánh Thể còn là bí tích được ban các dư dật theo khả năng đón nhận của từng người. Trong bài Tin mừng hôm nay có một sự đổi khác: các môn đệ chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá nhưng sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ thì họ đã ăn no nê và dư 12 thúng đầy. Chúa Giêsu đã làm phép lạ nuôi sống sự sống thể lý cho dân chúng qua đó Ngài cũng muốn nói lên rằng Ngài cũng sẽ trở nên Bánh nuôi sống sự sống thần linh mà Thiên Chúa đã ban cho bằng Mình và Máu Chúa. Có thể nói cái cốt yếu là lãnh nhận hồng ân Chúa như thế nào bởi Thiên Chúa đã ban và luôn ban dư đầy.
Hôm nay lễ Mình và Máu Chúa Kitô, chúng ta hãy cảm nhận tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta đặc biệt nơi Bí Tích Thánh Thể. Có yêu thật thì mới dám chết cho người mình yêu, có yêu say đắm thì mới dám lấy thịt mình cho người yêu. Nơi Bí Tích Thánh Thể Thiên Chúa ban chính mình cho chúng ta, Ngài muốn hiện diện trong chúng ta, hành động trong chúng ta, chiến đấu cho chúng ta.. Sống mầu nhiệm Bí Tích Thánh Thể là sống bái ái yêu thương bởi ta đã lãnh nhận nhưng không từ Thiên Chúa thì cũng hãy biết cho nhưng không. Thiên Chúa đã yêu chúng ta đồng thời Ngài cũng yêu mọi người như chúng ta, nếu ta để Thiên Chúa hiện diện trong chúng ta thì lẽ gì mà chúng ta không yêu thương anh em đồng loại.
Sống mầu nhiệm Bí Tích Thánh Thể còn là sống đời sống vui tươi. Vui tươi vì được Thiên Chúa ở cùng, vui tươi vì ta được sống sự sống của chính Thiên Chúa.
5. Bí Tích Tình Yêu – Huệ Minh
Yêu! Xem ra quá mầu nhiệm bởi lẽ chẳng ai định nghĩa được yêu là gì. Chỉ khi nào người ta yêu nhau người ta mới cảm về nhau, cảm tình yêu họ dành cho nhau như thế nào. Và, rất giản đơn khi ta thấy ai nào đó thương yêu nhau thì người ta sẽ làm mọi cách để biểu lộ tình thương và sự quan tâm của mình và đặc biệt muốn hiện diện, muốn ở mãi bên cạnh người mình yêu.
Trong thực tế, ta thấy những dịp kỷ niệm, người ta thường trao cho nhau những món quà, những cuộc điện thoại hay những tin nhắn qua điện thoại … Cử chỉ trao nhẫn cho nhau trong nghi thức của Bí tích Hôn phối cũng nói lên dấu chỉ tình yêu giữa hai người phối ngẫu. Dấu chỉ ấy nói lên từ giây phút đó họ sẽ thuộc trọn về nhau cả xác lẫn hồn.
Đặc biệt, với Thiên Chúa, Thiên Chúa là Tình Yêu và chính Thiên Chúa trong cung cách của Ngài, Thiên Chúa đã tỏ ra hàng trăm ngàn dấu chỉ để biểu lộ tình thương của Người dành cho con người. Một trong những cách biểu lộ rõ nét nhất đó chính là dấu chỉ quý báu củaBí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể chính là Bí tích quan trọng nhất trong 7 Bí tích. Vì qua Bí tích này chúng ta đón nhận được chính Chúa Giêsu là nguồn mọi ơn phúc, nguồi mạch của sự sống và đặc biệt nguồn mạch của tình yêu.
Trước khi chịu khổ hình Chúa Giêsu biết mình sẽ không còn hiện diện hữu hình ở trần gian này nữa nên Người đã lập Bí tích Thánh Thể. Ðể rồi qua Bí tích này Người sẽ còn tiếp tục hiện diện với con người. Quan trọng hơn là Người ban cho con người chính bản thân mình qua hình Bánh và hình Rượu.
Lễ kính Mình và Máu Thánh Chúa mời gọi chúng ta chiêm ngắm Mình Thánh Chúa Kitô qua hai biểu hiện. Một là qua Bí tích Thánh Thể, hai là qua Giáo Hội – thân thể mầu nghiệm của Người.
Ngày nay, trong Bí tích Thánh Thể, chính là việc Thiên Chúa tiếp nhận chúng ta vào bàn ăn của Người, và việc Người đón tiếp thì rất cụ thể: trong khung cảnh một bữa ăn để ta có cái ăn.
“Anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22, 19). Chúa Kitô đã thiết lập Bí tích cực trọng này để hiện tại hóa mầu nhiệm tử nạn của Người. Người ước ao vô cùng chúng ta lãnh nhận Người. Người mong muốn cháy bỏng trao ban chính mình Người cho chúng ta. Người khát khao nồng cháy kết hiệp thân tình với chúng ta. Tất cả điều đó chỉ vì tình yêu vô bờ bến mà Ngài dành cho chúng ta.
Vì vậy, Người đã không những trao ban chính mạng sống Người để cứu chuộc chúng ta, mà còn trao ban chính mình Người làm của dưỡng nuôi linh hồn chúng ta. Bởi vì tình yêu của Người là một tình yêu “cho đến cùng” (Ga 13,1). Mình và Máu Thánh Chúa chính là bảo chứng cho tình yêu đó. Vì yêu chúng ta, Người đã đổ tràn tình yêu của Người trên chúng ta cùng sự thiện hảo vô biên của Người.
Cả cuộc đời Đức Giêsu là thức ăn cho ta: Ngài hiện hữu không phải vì bản thân Ngài, mà hoàn toàn vì Thiên Chúa và vì con người. Ngài đã chết để con người được sống, đã tự hủy để con người được tồn tại, đã đau khổ để con người hạnh phúc, đã tự hạ để con người được nâng lên, đã chấp nhận bị đối xử như người tội lỗi để làm cho con người trở nên thánh thiện, v.v…
Ngài hiện hữu, Ngài làm mọi sự đều vì người khác, chẳng vì mình một chút nào. Và Ngài đã biểu hiện tính chất “là của ăn” một cách cụ thể và tuyệt vời khi lập bí tích Thánh Thể. Chúng ta ăn Ngài, nhưng chúng ta đừng quên bắt chước Ngài trong tính chất ấy. Ngài đã yêu cầu chúng ta: “Anh em hãy làm như Thầy vừa làm, để tưởng nhớ đến Thầy”. Tưởng nhớ ở đây không gì tốt hơn và ý nghĩa hơn là bắt chước Ngài trong tính chất ấy: Hãy trở nên đồ ăn cho những người chung quanh mình, nhất là những người sống gần mình nhất.
Bí tích Thánh Thể chính là việc Thiên Chúa muốn quy tụ, mời gọi và đón nhận mỗi người chúng ta vào dự Tiệc với Người. Bữa tiệc đó rất cụ thể, rất sinh động và sinh muôn ơn ích. Bàn tiệc mà chúng ta tham dự không đơn thuần là một bữa tiệc thông thường, mà là một bữa Tiệc Sự Sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến kín múc nơi bàn tiệc Thánh Thể để toàn thể con người chúng ta qua việc lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, chúng ta được hiệp thông cách trọn vẹn với Thiên Chúa, được sống chính đời sống Thần linh của Thiên Chúa. Bí tích Thánh Thể còn là một lời mời gọi chúng ta can đảm lên đường, đến với thế giới đang chia rẽ, đến với đồng loại đang đói nghèo, đau khổ, bệnh hoạn tù đày để liên kết, an ủi, nâng đỡ và cưu mang họ.
Thánh Lễ là nơi chúng ta tham dự vào bàn tiệc Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Thánh Lễ là một hy tế lặp lại hy tế Núi Sọ. Theo Công Đồng Vaticanô II, hy tế này là “nguồn cội và là chóp đỉnh của toàn bộ đời sống Kitô hữu” (LG 11). Là nguồi cội, vì tất cả đời sống Kitô hữu phát sinh từ đó; là chóp đỉnh, vì tất cả đời sống Kitô hữu phải qui về đó. Ấy thế mà một số giáo dân coi việc tham dự Thánh Lễ như chuyện miễn cưỡng phải giữ. Nhiều giáo dân cảm thấy thánh lễ không có liên quan gì đến cuộc sống của họ ngoài đời, không có ảnh hưởng gì trên đời thường của họ. Rốt cuộc thánh lễ bị họ bỏ rơi, nhà thờ ngày Chúa Nhật cũng vắng người. Đó đã là chuyện của các nước Tây phương, nhưng cũng sẽ là chuyện của chúng ta.
Xin Chúa thánh hoá và biến đổi chúng ta hầu cuộc đời chúng ta mãi mãi là Thánh lễ nối dài giữa lòng nhân loại.
6. Lương thực cho loài người
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Thánh lễ là Bàn tiệc. Rước lễ là ăn uống chính Mình và Máu Thánh Chúa, thứ lương thực tuyệt hảo nuôi sống và bổ dưỡng linh hồn chúng ta. Nếu linh hồn chúng ta yếu, Mình Máu Thánh Chúa sẽ bổ sức cho mạnh ; nếu ta đang chán nản, Chúa sẽ ban lại cho ta niềm hy vọng ; nếu chúng ta cảm thấy người khác khó thương, Ngài sẽ ban thêm cho ta lòng mến.
Chúng ta hãy sốt sắng tham dự Thánh Lễ này, nhất là sốt sắng rước Chúa vào lòng để cho Ngài nuôi dưỡng linh hồn chúng ta.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng ta lo tìm lương thực phần xác hơn là lương thực phần hồn.
– Chúng ta cùng tham dự một bàn tiệc Chúa, cùng ăn một thứ lương thực là Mình Máu Chúa, nhưng chúng ta không đoàn kết yêu thương nhau.
– Chúng ta được nuôi dưỡng bằng bánh bởi trời, nhưng chúng ta còn quá lo lắng trước những khó khăn trần thế.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (St 14,18-20):
Văn mạch của câu chuyện này là Abraham vừa mới chiến thắng liên minh nhiều vua trong vùng (xem St 14,1-16).
Hay tin ấy, Melkisêđê, vừa là vua vừa là tư tế thành Salem, đã đem lễ vật gồm bánh và rượu tới dâng cho Abraham để chúc mừng ông ; đồng thời Melkisêđê cũng nhân danh Thiên Chúa tối cao chúc lành cho Abraham.
Phần Abraham. mặc dù lúc ấy ông đã hùng mạnh, nhưng ông cũng bày tỏ lòng thần phục vị Tư Tế của Thiên Chúa, nên đã nộp cho vị này một phần mười tất cả các chiến lợi phẩm.
2. Đáp ca (Tv 109)
Tv 109 ca tụng Đấng Messia như một vì vua thống trị tất cả các vua trên mặt đất.
Câu đáp “Con là Thượng tế đến muôn đời theo phẩm hàm Melkisêđê” lại cho thấy Vua Messia ấy còn là Thượng tế nữa.
Cả hai tước hiệu Vua và Thượng Tế đều được áp dụng cho Chúa Giêsu.
3. Tin Mừng (Lc 9,11-17):
Phép lạ hóa bánh ra nhiều.
Cách viết của thánh Luca chứa nhiều ngụ ý:
– Ngụ ý nhắc lại phép lạ manna ngày xưa: nơi diễn ra phép lạ là “sa mạc”, một đám đông dân chúng đang đói, họ đã được ban cho một thứ bánh phép lạ, dư lại 12 thúng tương đương con số các chi tộc Israel à Như thế, phép lạ này tái diễn phép lạ manna trong sa mạc ngày xưa và còn trổi vượt hơn phép lạ xưa ấy nữa.
– Ngụ ý ám chỉ bí tích Thánh Thể mà Chúa Giêsu sẽ lập: thời điểm diễn ra là “khi đã xế chiều” (giống bữa tiệc ly), những cử chỉ của Chúa Giêsu “cầm lấy”, “nhìn lên”, “chúc tụng”, “bẻ ra” và “chia” (giống những cử chỉ Chúa Giêsu làm khi lập phép Thánh Thể).
Tóm lại, phép lạ hóa bánh ra nhiều này nhắc lại phép lạ manna ngày xưa và là hình ảnh tiên báo về Bí tích Thánh Thể.
4. Bài đọc II (1 Cr 11,23-26):
Thời đó, tín hữu có thói quen cử hành “bữa tiệc Thánh Thể” (Cena) trong khung cảnh một “bữa ăn huynh đệ” (agape). Ý nghĩa của bữa Cena là như sau: mỗi khi họp nhau để cử hành Thánh Thể, các tín hữu đem theo của ăn thức uống góp chung lại, một phần để giúp những anh em nghèo túng, phần còn lại chia nhau dùng chung.
Nhưng ở Côrintô những người giàu đã vội vàng ngồi vào bàn và ăn uống trước không chờ những người nghèo. Tệ hơn nữa, những bữa ăn ấy lại là dịp cho họ nhậu nhẹt say sưa.
Để sửa tệ nạn ấy, Thánh Phaolô nhắc lại truyền thống bữa Tiệc ly của Chúa. Ở đây, Phaolô trích dẫn một bản văn phụng vụ về việc Chúa lập bí tích Thánh Thể. Đây là một tài liệu rất quý giá (cc 23-27). Sau đó (cc 28-34) ngài khuyến khích họ cử hành Thánh Thể một cách xứng đáng và đúng nghĩa. Tham dự cách bất xứng là tham dự Thánh Thể mà không quan tâm đến việc chia xẻ với những anh em nghèo túng, không nhận biết cộng đoàn Giáo Hội là thân mình của Đức Kitô được xây dựng trong tiệc Thánh Thể (ý nghĩa kiểu nói “phân biệt được Thân mình”).
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Lễ Tạ Ơn
Theo nguyên ngữ, Eucharistia, Thánh lễ là một lễ Tạ ơn. Ý nghĩa này rất rõ trong các bài đọc hôm nay:
– Tư tế Melkisêđê hay tin Abraham chiến thắng thì đã “chúc tụng Thiên Chúa” (bài đọc I). Chúc tụng là một cách tạ ơn.
– Abraham nộp cho vị Tư Tế của Thiên Chúa một phần mười tất cả các chiến phẩm cũng là để bày tỏ tâm tình tạ ơn (bài đọc I).
– Khi Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể, Ngài cũng “cầm lấy bánh và tạ ơn” (bài đọc II)
– Khi Ngài làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, hình ảnh tiên báo Bí tích Thánh Thể, Ngài cũng “cầm lấy, ngước mắt nhìn lên trời và chúc tụng” (chúc tụng là tạ ơn) (bài Tin Mừng).
Nhưng ngày nay khi chúng ta dự Thánh lễ, hầu như chúng ta chỉ biết xin ơn mà quên tạ ơn.
Có biết bao điều ta có thể tạ ơn Chúa mỗi khi tham dự Thánh Lễ.
2. Những điều tầm thường trở thành phi thường
Trong các bài đọc hôm nay, chúng ta thấy nhiều điều rất tầm thường trong cuộc sống bình thường: bánh, rượu, ăn, uống, cầm, bẻ ra, chia…
Nhưng Melkisêđê đã dùng bánh và rượu ấy để làm lễ tế ; Chúa Giêsu cũng dùng bánh và rượu để biến thành Mình và Máu Ngài. Và Chúa Giêsu đã làm việc đó bằng những cử chỉ bình thường như cầm lấy, bẻ ra, trao…
Trong Thánh lễ, tất cả những điều bình thường và thậm chí tầm thường đều có thể trở thành phi thường, cao cả, thánh thiện.
Vậy mỗi khi tham dự Thánh lễ, chúng ta hãy đến với những sự tầm thường và thánh hóa chúng thành những điều phi thường. Thí dụ: mồ hôi, nước mắt, việc làm, tâm tư, nguyện ước….
3. Quen thuộc hóa
Linh mục Walter Ciszek bị quân Nga bắt trong thế chiến thứ hai. Ngài bị kết tội là “Gián điệp Vatican” và phải qua 23 năm trong tù và trong các trại lao động Sibêrica. Cuối cùng, khi ra khỏi tù, Ngài viết lại một quyển sách về những kinh nghiệm của mình và đặt tựa cho nó là: “He Liadeth me” (Ngài dẫn dắt tôi)
Một số câu chuyện cảm động trong cuốn sách nói về những hy sinh mà các tù nhân phải chịu để được nhận lãnh Mình Thánh Chúa Kitô ở trong tù. Đặc biệt có một câu chuyện đáng ghi nhớ. Trước khi chia sẻ câu chuyện này với anh chị em, tôi xin trình bày bối cảnh của câu chuyện:
Vào những ngày xảy ra thế chiến thứ hai, tức là trước Công Đồng Vatican II, giáo luật buộc kiêng ăn uống suốt 24 giờ đồng hồ trước khi rước lễ. Xin lưu ý điều này khi đọc đoạn văn sau trích từ quyển sách của Linh mục Ciszek:
“Tôi thấy các tù nhân phải bỏ bớt giấc ngủ cần thiết và thức dậy trước chuông rung để tham dự thánh lễ bí mật. Chúng tôi sẽ bị trừng trị nghiêm khắc nếu bị khám phá đang hành lễ và luôn luôn lúc nào cũng có những tên chỉ điểm… Tất cả điều trên khiến cho những thánh lễ có đông tù nhân trở nên rất khó khăn, vì thế khi có thể chúng tôi thường truyền phép thêm bánh lễ để phân phối cho các tù nhân khác. Đôi khi chúng tôi thường chỉ trông thấy họ khi chúng tôi trở về trại vào ban tối trước bữa ăn. Tuy vậy, những người này thường phải thực sự nhịn đói cả ngày và phải lao động cật lực mà không dám ăn một miếng kể từ bữa ăn tối chiều hôm trứơc chỉ với mục đích là để có thể rước Thánh Thể, điều này cho thấy Bí Tích Thánh Thể có ý nghĩa với họ biết là dường nào !” (Trích từ He Leadeth me của Walter Ciszek và Daniel Fatherly, bản 1973 của Walter J. Ciszek S. J).
Nói cách khác, trường hợp các tù nhân có thể sánh hệt như vào giờ này hôm qua đến giờ này hôm nay anh chị em và tôi chẳng hề ăn uống gì cả, đồng thời chúng ta lại đang phải lao động vất vả trong thời tiết dưới không độ. Điều ấy cho thấy sự rước lễ có ý nghĩa biết bao đối với Linh Mục Ciszek và các tù nhân của Ngài.
Câu chuyện trên thật thích hợp với lễ Mình Thánh Chúa Kitô hôm nay. Hai tiếng La Tinh “Corpus Christi” có nghĩa là “Thân Thể Chúa Kitô”… Vào dịp lễ Mình Thánh Chúa Kitô này, chúng ta tôn vinh thân xác Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể.
Tại sao chúng ta dành riêng một ngày đặc biệt để tôn vinh “Mình Thánh” Chúa Kitô? Chúng ta đã chẳng tôn vinh Mình Thánh Chúa Kitô vào mỗi khi dâng Thánh lễ sao? Vậy tại sao lại có ngày dành riêng đặc biệt này?
Lý do chúng ta mừng lễ Mình Thánh Chúa Giêsu cũng chính là lý do khiến chúng ta mừng ngày dành riêng cho các bậc làm cha hôm nay. Bởi khuynh hướng con người chúng ta thường xem những tặng phẩm đặc biệt là điều dĩ nhiên, chẳng hạn như thân mình Chúa Giêsu hoặc các người bố của chúng ta.
Một trong những bi kịch lớn nhất của cuộc đời chúng ta thường đánh mất sự quí trọng đối với một vài tặng phẩm quí giá nhất mà chúng ta đang có. Tại sao vậy? Các nhà tâm lý học cho chúng ta hay là nếu chúng ta cứ phải chú ý đến từng âm thanh chúng ta nghe hoặc từng mầu sắc chúng ta thấy thì chắc chắn chúng ta sẽ phát điên lên. Vì thế để bảo vệ chúng ta khỏi sự điên khùng này, chúng ta liền thích ứng với những âm thanh và mầu sắc này, chúng ta đóng khung chúng khỏi ý thức mình. chẳng hạn, nếu chúng ta nghe ai đó đánh máy trong phòng bên cạnh thì chúng ta sẽ để cho lỗ tai làm quen với âm thanh ngay. Các nhà tâm lý học gọi tiến trình này là “Quen thuộc hoá” (habituation).
Tuy nhiên cũng có mặt trái của sự quen thuộc này. Bởi vì chúng ta thường dễ có khuynh hướng làm ngơ trước mọi sự, chẳng hạn những buổi mặt trời lặn, những bông hoa, bè bạn, các bà mẹ, các ông bố và ngay cả Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Chúng ta đánh mất sự quý chuộng và sự biết ơn về những điều ấy. Chúng ta xem đó như những điều đương nhiên.
Sự quen thuộc hoá này là một trong những lý do quan trọng khiến môn Thiền đã trở nên khá phổ biến. Mục đích của việc thiền định là giúp chúng ta tiêu trừ “sự quen thuộc hoá” này. Nó giúp chúng ta ý thức trở lại vẻ đẹp của hoàng hôn, của bông hoa, của bè bạn. Trong thiền định, người ta cố gắng tập trung chú ý vào một đối tượng thân thuộc, chẳng hạn một bông hoa, như thể lần đầu tiên người ta trông thấy nó ; hoặc tập trung vào một kẻ mình yêu mến chẳng hạn ông bố của mình như thể đây là lần sau cùng mình trông thấy ông và ao ước cho hình ảnh ông ấy trường tồn mãi trong tâm trí.
Điều này dẫn chúng ta đến với Mình Thánh Chúa Kitô. Lễ Mình Thánh Chúa Kitô đưa ra cho chúng ta lời mời gọi lẫn thách thức.
Trước hết là lời mời gọi. Mình Thánh Chúa Kitô mời gọi chúng ta tự vấn xem việc rước lễ có ý nghĩa gì với chúng ta? Chúng ta còn trân trọng việc ấy nhiều như khi chúng ta rước lễ lần đầu không? Việc rước lễ có ý nghĩa đối với chúng ta nhiều như đối với các tù nhân trong cuốn sách của Linh Mục Ciszek không?
Nếu câu trả lời của chúng ta là không thì chúng ta sẽ gặp phải một lời thách thức. Đây cũng là lời thách thức dành cho các bậc làm bố đặt ra cho chúng ta. Thách thức đó là: “Làm thế nào chúng ta có thể tìm lại được sự quí chuộng đối với phép Thánh Thể cũng như sự quí chuộng đối với bố mình? Làm thế nào chúng ta có thể phấn khích trở lại về cả hai tặng phẩm ấy?”
Một phương cách giúp chúng ta làm được điều đó là bắt chước các thiền sư. Chúng ta cố gắng suy niệm về Mình Thánh Chúa Kitô như thể lần đầu tiên chúng ta khám phá ra mầu nhiệm này.
Cách đây một ít năm, bà Emilie Griffin làm nghề quảng cáo ở Nữu Ước đã trở lại đạo Công Giáo. Bà có viết một cuốn sách hấp dẫn tựa đề Turning (Trở lại), trong đó bà bàn về lý do lôi kéo bà đến với đạo Công Giáo như sau:
“Lòng sùng mộ gia tăng đối với phép Thánh Thể và niềm tin vào việc Chúa hiện diện thực sự đã lôi kéo tôi đến nhà các nhà thờ thuộc Công giáo Rôma và trong khi lòng sùng mộ phép Thánh Thể càng gia tăng thì tôi lại càng bị lôi cuốn đến với Công giáo Rôma”.
Như thế, chúng ta nên cố gắng suy niệm về bí tích Thánh Thể theo gương Emilie Griffin khi bà khám phá ra mầu nhiệm khôn dò này ngay trong lần đầu tiên.
Tôi xin được phép kết thúc bài giảng với hai gợi ý sau.
Thứ nhất, trong tuần lễ sắp tới, anh chị em hãy gia tăng lời cảm tạ Chúa Giêsu vào giờ kinh nguyện hằng ngày vì Ngài đã tặng ban Máu Thịt Ngài làm quà cho chúng ta.
Thứ đến, kể từ nay trong giờ lễ mỗi khi bước ra khỏi hàng ghế để lên nhận Mình Thánh Chúa, anh chị em hãy tập trung ý nghĩ một cách đặc biệt vào Đấng mà anh chị em sắp lãnh nhận khi thừa tác viên Bí tích Thánh Thể nâng Bánh Thánh lên nói: “Mình Máu Chúa Kitô”. Bởi vì:
Anh chị em sắp lãnh nhận thân xác sống động của Chúa Kitô.
Anh chị em sắp lãnh nhận chính Chúa Giêsu đã sinh ra ở Belem.
Anh chị em sắp lãnh nhận chính Chúa Giêsu đã chết trên thập giá.
Anh chị em sắp lãnh nhận chính Chúa Giêsu phục sinh từ cõi chết.
Khi anh chị em suy nghĩ về điều này, chắc chắn anh chị em khó thể nào tin nổi vì điều ấy thật khó mà tưởng tượng được, tuy nhiên nhờ đức tin chúng ta biết rằng điều ấy quả có thực. Chỉ một mình Thiên Chúa giàu lòng yêu thương mới có thể ban cho chúng ta một quà tặng khôn tưởng như thế. (Vietcatholic)
4. Lương thực thần linh
Một số anh chị em dự tòng sau khi được học hỏi về sự cao quý, về tầm quan trọng và về sự cần thiết của thánh lễ cũng như của bí tích Thánh Thể đã đưa ra câu hỏi: Nếu thánh lễ và mầu nhiệm Thánh Thể cao quí và cần thiết cho đời sống thiêng liêng như vậy, thì tại sao nhiều người công giáo lại không đi dâng lễ, hay nếu có đi thì lại ngồi ở ngoài hút thuốc, nói chuyện, chơi giỡn và hầu như không bao giờ rước Mình Thánh Chúa?
Một câu hỏi quả là gây nhức nhối và rất đáng để những người mang danh là Kitô hữu phải suy nghĩ. Có lẽ ta khó có thể tìm được một lý do nào chính đáng để trả lời cho thắc mắc này ngoài việc nhận thực rằng: tại do yếu kém về giáo lý, do thiếu hiểu biết về Chúa, về những gì Người đã dạy và đã làm, do thiếu ý thức về những sự thánh thiêng, do thiếu trưởng thành trong đời sống đạo nên mới xảy ra những trường hợp như vậy. Vì thiếu hiểu biết nên không thấy được sự cao quí và tầm quan trọng của việc dâng lễ và việc rước Thánh Thể. Những người này coi việc đi dâng lễ ngày Chúa Nhật chỉ là một khoản luật phải giữ để khỏi có tội, để khỏi bị phạt mà thôi. Họ không ý thức rằng: thánh lễ và Thánh Thể là những điểm hẹn để họ gặp gỡ Thiên Chúa là Cha của mình. Họ cũng không biết rằng đây là cơ hội rất quý báu để có thể kín múc lấy nguồn sự sống, nguồn ân sủng cần thiết cho cuộc đời.
Thánh lễ và bí tích Thánh Thể không do Hội Thánh, không do bất cứ ai bịa đặt ra, nhưng là do chính Chúa Kitô thiết lập. Thánh lễ ngày nay tái diễn và làm sống lại thánh lễ Chúa Kitô đã dâng khi xưa trên thánh giá để tiếp tục chuyển thông ơn cứu rỗi cho mọi người, mọi thời và mọi nơi. Và thánh Thể chính là lương thực nuôi sống linh hồn ta trong hành trình làm người, cũng là hành trình đi về quê hương trên trời. Chúa Giêsu đã nói đi nói lại nhiều lần: “Thịt tôi thật là của ăn, máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi thì sẽ được sống đời đời” (Ga 6,54-55). Ngay cả khi Người biết rõ ràng rằng: Khi Người nói ra những điều ấy, người ta sẽ không tin, sẽ nhạo cười và sẽ bỏ đi, Người vẫn cứ nói. Điều đó cho thấy vấn đề Chúa Giêsu nói ra quan trọng và cần thiết như thế nào.
Con người không chỉ có thân xác nhưng còn có linh hồn. Và mục đích của đời sống làm người không chỉ là sự no đủ cơm áo phần xác mà còn là sự no đủ của đời sống tâm linh nữa: “Người ta sống không chỉ bởi bánh” (Lc 4,4).
Thiết tưởng mỗi người chúng ta đang hiện diện nơi đây đều có dư khả năng để nhận thức điều này. Vấn đề còn lại là thái độ của chúng ta đối với thánh lễ và Thánh Thể như thế nào mà thôi. (Sưu tầm)
5. Bí tích tình yêu
Trái bom nguyên tử đầu tiên đã nổ tại Hiroshima ngày 6 tháng 8, 1945. Năm giờ rưỡi sáng hôm sau, một thánh lễ được cử hành ở ngoại ô thành phố giữa những nạn nhân nằm la liệt.
Linh mục giám đốc tập viện Dòng Tên mở cửa nguyện đường đón nhận họ và tìm cách săn sóc họ. Về sau, khi đã trở nên Bề Trên Cả Dòng Tên, cha giám đốc tập viện Pedro Arrupe kể lại cảnh tượng sáng hôm đó như sau: “Nguyện đường tập viện chúng tôi phân nửa đã bị tàn phá, khi ấy tràn ngập những người bị thương do bom nguyên tử. Họ nằm la liệt bên nhau trên nền nhà, co quắp lại, bị đau khủng khiếp. Tôi khởi sự dâng thánh lễ, ráng tập trung trong một thế giới chẳng hiểu biết gì về những điều đang thực hiện trên bàn thờ. Họ là người ngoại đạo chưa hề dự một thánh lễ. Tôi không thể nào quên được cử chỉ tôi làm khi hướng về họ và nói: Chúa ở cùng anh chị em, giữa cảnh họ đang chịu đau đớn. Tôi hầu như bị tê liệt với hai tay giang ra mà tôi nghĩ tới thảm kịch con người dùng tiến bộ khoa học và kỹ thuật để tiêu diệt loài người. Đáp lại là những cặp mắt của những nạn nhân đang chờ nguồn an ủi nào đó từ bàn thờ giữa cảnh họ đang hấp hối và tuyệt vọng (…)
Sáu tháng sau, tất cả các nạn nhân được chữa trị đều trở về nhà, chỉ trừ hai người đã chết. Nhiều người trong số họ đã chịu Phép Rửa và ai thì cũng được biết thế nào là đức Ái Kitô giáo (…)
Bí Tích Thánh Thể – Dấu chỉ hữu hình của Tình Yêu siêu việt
Bí Tích Thánh Thể lại một lần nữa làm cho tôi kinh ngạc và cúi đầu thán phục trước sáng kiến vĩ đại của mầu nhiệm Nhập Thể, một sáng kiến chỉ có thể là sáng kiến của Tình Yêu. Chính để cứu chuộc con người mà Thiên Chúa đã nên một Con Người như ta. Chính để trao ban Sự Sống Đích Thực cho ta, mà Ngài đã trở nên của ăn thật sự, cụ thể cho ta. Điều kỳ diệu là sức sống thiêng liêng lại có thể ban cho ta qua Bàn Tiệc rất hữu hình và cụ thể. Ta không chỉ ăn Đức Giêsu cách biểu tượng và mầu nhiệm, mà còn một cách thực sự hữu hình và vật chất. Đó chính là sự kỳ diệu của Bí Tích vậy. Hội Thánh của Đức Giêsu được nuôi dưỡng bởi chính những dấu chỉ hữu hình đó. Thán phục trước sự kỳ diệu đó, tôi thấy mình được mời gọi yêu mến Hội Thánh, Thân Thể Mầu Nhiệm của Đức Giêsu hơn, với những phương tiện hữu hình, giới hạn nhưng đem lại sức sống dồi dào của Mẹ Thánh.
Đức Giêsu ban sự sống cho ta không với tư cách một người ban phát từ bên ngoài, nhưng Ngài tự nguyện trở thành của ăn cho ta. Đó là một hành vi tự nguyện tiêu tan đi, để cho kẻ khác nhờ đó mà được sống, tựa như hạt giống kia mục nát đi để đem lại sự sống cho vô số hạt khác. Một hành vi phục vụ đúng nghĩa. Tôi tự hỏi mình đã có một ước muốn phục vụ đích thực theo nghĩa là dám tự nguyện quên mình để nghĩ đến lợi ích người khác hay chưa.
Bí Tích Thánh Thể là Bí Tích của sự hiệp thông. Thánh Thể hiện diện nơi Nhà Tạm là trung tâm của cộng đoàn tụ họp lại trong tình huynh đệ, dâng lên Cha hiến lễ chính Người Con. Vì Hội Thánh là Nhiệm Thể của Đức Kitô, nên khi dâng lên Cha Người Con, cộng đoàn tụ họp cũng dâng lên Cha chính mình với tư cách là Hội Thánh, Thân Mình của Đức Kitô vậy. Và khi cử hành Bàn Tiệc Thánh, cộng đoàn cũng cử hành mầu nhiệm hiệp thông vậy. Làm cho tôi được kết hợp với Đức Giêsu Phục Sinh, Bí Tích Thánh Thể còn liên kết tôi với anh chị em khác vốn cũng đang mang Đức Giêsu trong mình: bởi vì họ cũng được Ngài yêu mến, hiến thân cho. Liệu tôi có thể yêu mến Đức Giêsu đích thực không khi tôi chẳng yêu thương những người mà chính Ngài yêu thương đến nỗi hiến mạng vì họ? Nếu tôi yêu mến Thánh Thể của Đức Giêsu, thì liệu tôi có sẵn sàng quan tâm, săn sóc những thành phần đau yếu nghèo đói, bị bỏ rơi của Nhiệm Thể Ngài là Hội Thánh chăng? Còn biết bao anh chị em trong cùng Thân Thể với tôi đang rên xiết dưới sức nặng của đau khổ và cần tôi giúp đỡ và yêu mến. Chính Bí Tích Thánh Thể là nguồn sức mạnh khiến tôi có khả năng yêu mến và thể hiện Tình Yêu đó cho anh chị em tôi. (Lm Augustine, sj. Vietcatholic)