Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo thánh Mátthêu (Mt 17: 22-27)
Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu còn đang ở Galilêa, thì Chúa Giêsu bảo các ông rằng: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết Người, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”. Các môn đệ rất đỗi buồn phiền. Khi các ngài đến Capharnaum, thì những người thu thuế “đền thờ” đến gặp Phêrô và hỏi rằng: “Thầy các ông không nộp thuế “đền thờ” sao? Ông nói: “Có chớ”. Khi ông về đến nhà, Chúa Giêsu hỏi đón trước rằng: “Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian thu thuế má hạng người nào? Đòi con cái mình hay người ngoài?” Ông thưa rằng: “Đòi người ngoài”. Chúa Giêsu bảo ông rằng: “Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để chúng ta không làm cho họ vấp phạm, con hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền, con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần các con”.
Suy niệm 1
Để duy trì các hoạt động cho đền thờ Giêrusalem, người ta phải cần đến một ngân sách rất lớn. Mỗi ngày phải dâng lễ vật hai lần, sáng và chiều, mỗi lần một con chiên một tuổi. Kèm theo con chiên, còn cần có rượu, dầu và bột mì, nhất là hương liệu để đốt hằng ngày, đều phải mua và pha chế. Đó là chưa kể đến những bộ áo lễ đắt tiền của tư tế, chỉ riêng chiếc áo của thượng tế đã có giá bằng chuộc một ông vua. Nhìn chung, mọi thứ đều liên quan đến tiền. Có thể đây là nguyên nhân phải đóng thuế đền thờ?
Vấn đề này vô cùng nhạy cảm, tế nhị và có phần bấp bênh vì thời Chúa Giêsu có thể đền thờ Giêrusalem không còn nữa. Mọi đàn ông Do Thái trên 20 tuổi đều phải nộp thuế cho đền thờ. Vấn đề này gây tranh cãi và bất mãn trong cộng đồng Do Thái, vì họ nghĩ nếu đền thờ không còn thì tại sao phải nộp thuế. Lúc đó, việc nộp thuế không hẳn là cho đền thờ Do Thái mà cho người Rôma, để họ chi trả cho các hoá đơn của đền thờ bên họ. Thời điểm này, Do Thái đang là thuộc địa của người Rôma.
Chúa Giêsu hiểu rõ hoàn cảnh này nên khuyên các tông đồ phải nộp thuế để khỏi gây vấp phạm. Chúa Giêsu cũng dè chừng trước những thế lực chống đối Người. Có thể họ nhắm vào việc này để làm lớn chuyện, lấy đó làm nguyên nhân tố cáo Chúa Giêsu làm phản, để nhổ cái gai trong mắt của họ.
Bài học từ Tin Mừng hôm nay, chúng ta không chỉ được mời gọi hoàn thành bổn phận Kitô hữu mà còn thi hành bổn phận công dân của mình, để điều đó không gây vấp ngã cho người khác, nhất là trong việc sống tinh thần Công giáo cách trọn vẹn hơn.
GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
Suy niệm 2
Thánh Maximilianô Maria Kolbe chào đời vào ngày 7 thánh 1 năm 1894, tại Zund-Wola, thuộc nước Ba lan. Bố mẹ đặt tên là Raymond. Ngay từ nhỏ, khi được cha mẹ hỏi, ngài trả lời, “Con tha thiết cầu xin với Ðức Mẹ để biết tương lai của con. Và Ðức Mẹ đã hiện ra, tay cầm hai triều thiên, một mầu trắng, một mầu đỏ. Ðức Mẹ hỏi con có muốn nhận các triều thiên ấy không – mầu trắng là sự thanh khiết, mầu đỏ là sự tử đạo. Con trả lời, “Con muốn cả hai.” Ðức Mẹ mỉm cười và biến mất.” Sau biến cố đó, cuộc đời của Maximilianô Kolbe không còn giống như trước.
Năm 1907, thánh nhân nhập dòng Phansinh và lấy tên là tu huynh Maximilian. Ngài được gởi sang Rôma để học triết học và thần học. Kolbe thụ phong linh mục vào năm 1918. Sau khi trở về Ba lan, ngài thành lập đội Đạo binh Đức Mẹ Vô Nhiễm. Năm 1927, cha Kolbe thành lập hội “Thành đô Đức Mẹ Vô Nhiễm”. Hội này phát triển và lan rộng tại Ba Lan và nhiều nước khác. Ngài phát hành tờ Hiệp Sĩ của Ðức Vô Nhiễm, được đặt dưới sự phù hộ của Ðức Maria để rao giảng Phúc Âm cho mọi dân tộc. Ðể thực hiện công việc ấn loát, ngài thành lập “Thành Phố của Ðức Vô Nhiễm” – Niepolalanow – mà trong đó có đến 700 tu sĩ Phanxicô làm việc.
Năm 1939, Ðức Quốc Xã xâm lăng Ba Lan. Thành phố Niepolalanow bị dội bom. Cha Kolbe và các tu sĩ Phanxicô bị bắt, nhưng sau đó chưa đầy ba tháng, tất cả được trả tự do, vào đúng ngày lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Vào năm 1941, ngài bị bắt một lần nữa. Mục đích của Ðức Quốc Xã là thanh lọc những phần tử tuyển chọn, là các vị lãnh đạo. Cuộc đời Cha Kolbe kết thúc trong trại tập trung Auschwitz.
Vào ngày 31 tháng Bảy 1941, có một tù nhân trốn thoát. Sĩ quan chỉ huy trại bắt 10 người khác phải chết thay. Hắn khoái trá bước dọc theo dãy tù nhân đang run sợ chờ đợi sự chỉ định của hắn như tiếng gọi của tử thần. “Tên này.” “Tên kia.” Có những tiếng thở phào thoát nạn. Cũng có tiếng nức nở tuyệt vọng.
Trong khi 10 người xấu số lê bước về hầm bỏ đói, bỗng dưng tù nhân số 16670 bước ra khỏi hàng. “Tôi muốn thế chỗ cho ông kia. Ông ấy có gia đình, vợ con.”
Cả một sự im lặng nặng nề. Tên chỉ huy sững sờ, đây là lần đầu tiên trong đời hắn phải đối diện với một sự can đảm khôn cùng.
– “Mày là ai?”
– “Là một linh mục.” Không cần xưng danh tính cũng không cần nêu công trạng.
Và Cha Kolbe được thế chỗ cho Trung Sĩ Francis Gajowniczek.
Trong “hầm tử thần” tất cả bị lột trần truồng và bị bỏ đói để chết dần mòn trong tăm tối. Nhưng thay vì tiếng rên xiết, người ta nghe các tù nhân hát thánh ca. Vào ngày lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (15 tháng 8) chỉ còn bốn tù nhân sống sót. Tên cai tù chấm dứt cuộc đời Cha Kolbe bằng một mũi thuốc độc chích vào cánh tay. Sau đó thân xác của ngài bị thiêu đốt cũng như bao người khác.
Cha được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh năm 1981.
Thánh Maximilian nói rằng chúng ta sa ngã để chúng ta biết học cách sống khiêm nhường. Đây là điểm chính yếu vì lòng kiêu ngạo là kẻ thù số một của linh hồn, và dù chúng ta có vẻ tiến bộ trong đời sống tâm linh như thế nào, đó vẫn chỉ là ảo tưởng nếu chúng ta kiêu ngạo và tự mãn. Đầu tiên, chúng ta phải học cách sống khiêm nhường trước khi chúng ta có thể thực sự tiến bộ trên đường thánh thiện.
Vấn đề là, nếu chúng ta chiến thắng chính mình bằng ý chí mạnh mẽ, chúng ta sẽ dễ tự mãn và hóa kiêu ngạo. Chúng ta không biết chúng ta yếu đuối và cần được chữa lành thế nào và chúng ta phải lệ thuộc vào ân sủng của Thiên Chúa như thế nào, ngay cả trong những điều nhỏ nhoi thôi.
Tái phạm tội, rồi tỉnh ngộ, chúng ta có thể làm như vậy. Cảm thấy khiêm nhường sau mỗi lần phạm tội có thể là điều tốt nếu điều đó làm cho chúng ta biết lệ thuộc vào Đức Maria, và qua Đức Mẹ, chúng ta có thể đến với Chúa Giêsu. Thánh Maximilian và Thánh Gioan Phaolô II đều biết phó thác cho Đức Mẹ.
Cha M.Kolbe trở nên biểu tượng của tự do Tin Mừng, của sự thiện chiến thắng cái ác trong bối cảnh thế kỷ XX với mọi biến động, trong đó có hai cuộc chiến tranh thế giới khốc liệt và sự xuất hiện của hệ thống toàn trị cộng sản, như sự kéo dài của bạo tàn, hận thù và tuyệt vọng.
Viên cai ngục sững sờ trước giá trị cao cả của Tin mừng mà cha bộc lộ công khai cách hiên ngang. Lần đầu tiên, việc áp giải cha vào phòng hơi ngạt không còn mang tính ghê rợn, chết chóc, mà như cuộc khải hoàn. Cha không đi trong nỗi oán hận, giữa sự nguyền rủa sự tàn bạo của các tù nhân, hoặc trong nỗi vui phớt qua của các tù nhân khác, vì chưa đến lượt mình.
Cha M.Kolbe tự nguyện hiến mạng sống mình, chọn cái chết thay cho người bạn tù, như thế, ngài ở trên cái chết, cái chết không còn quyền gì đối với ngài.
Ngài không khinh chê sự sống nhưng làm vinh danh Đấng có quyền năng trên cả sự chết lẫn sự sống, Đấng sẽ ban cho ngài sự sống đích thật và ngài vĩnh viễn được thuộc về Đấng ấy, Đức Giêsu Kitô.
Hình ảnh thật hiên ngang đi giữa những tù nhân đến phòng hơi ngạt, cha M.Kolbe cho thấy Thiên Chúa vẫn đang hiện diện, dù là trong cái “hỏa ngục trần gian”, dù là trong những hoàn cảnh bi thảm nhất, tuyệt vọng nhất, trong những tù nhân không còn hình dạng con người và ngay cả giữa những tên Phát xít tàn ác kia.
Và ta thấy mỗi bước chân cha đi qua ghi lại dấu tích của một tình yêu hiến mình, cao cả, khơi lên niềm hy vọng cứu thoát đặt nơi Thiên Chúa, làm dịu êm, tươi mát những tâm hồn cằn cỗi, trong kiếp sống bị đày đọa, kiếp sống mà cha cũng đang sống. Cha đã xóa mình đi để hé rạng một chân trời mới, không còn cái tôi ích kỷ làm trung tâm, không còn dính bén cái sống và sợ hãi cái chết, những sự đời này chỉ là tạm bợ, phải nhường chỗ, phải được thay thế cho sự vĩnh cửu của Thiên Chúa, Đấng mà cha hùng dũng tiến đến trong tư cách là một người phục vụ. Đó là ngày áp lễ Đức Mẹ Mông Triệu 1941.
Và mỗi người chúng ta hãy theo lời khuyên của Thánh Maximilian và đừng bao giờ thất vọng dù khi ta vẫn tiếp tục phạm tội trọng. Thất vọng là tội duy nhất mà Thiên Chúa không thể tha thứ. Hãy cố gắng học sống khiêm nhường và sẵn sàng đón nhận ân sủng mà Thiên Chúa gởi cho ta. Hãy duy trì sống trong ân sủng và kiên nhẫn trông cậy vào Thiên Chúa. Ngài sẽ giải thoát bạn khỏi thời gian khó khăn.
Huệ Minh