Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do thái rằng: “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết”. Người Do Thái lại nói: “Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: “Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết. Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?”. Chúa Giêsu trả lời: “Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Đấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói: Ta không biết người, thì Ta cũng nói dối như’ các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời người. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng”. Người Do thái liền nói: “Ông chưa được năm mươi tuổi, mà đã trông thấy Abraham rồi sao ?”. Chúa Giêsu trả lời: “Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi”. Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.
SUY NIỆM 1
Cuộc sống trần gian vốn có những qui luật để bảo vệ bình an, trật tự cho con người, cho xã hội. Ai làm trái với những qui định, sẽ phải chịu trừng phạt hoặc chịu những hậu quả đau thương cho bản thân, cho người khác.
Nhưng những gì do con người qui định, lại thường quá giới hạn và bất toàn, chỉ phục vụ cho lợi ích của một tầng lớp nào thôi. Từ đó, có những bất phục tùng, những phản kháng. Cách phản ứng thường tình này, trở thành một thói quen vô thức, khiến chúng ta bất phục tùng với cả lời Chúa.
Một thanh niên bị bạn khiêu khích, đang chuẩn bị hung khí để đi trả thù. Lòng dâng trào sự thù hận. Tâm trí đang căng thẳng trước khi hành động. Đêm nay, tên khiêu khích xúc phạm sẽ không được sống trên đời. Trời tối, đêm về, tâm hồn anh chỉ còn là một màu đen. Tắt đèn, giả vờ nằm ngủ. Anh nhìn ngọn đèn nhỏ trên bàn thờ gia đình. Một chút ánh sáng mờ nhạt còn lại trong phòng tối. Bất giác, ánh sáng le lói của ngọn đèn thờ kia dọi vào tim anh, khi nhìn tượng Chúa mà ngọn đèn kia bao năm dọi sáng cho anh nhìn thấy Chúa giữa đêm tối. Lời Chúa như một ánh chớp chiếu tỏa hồn anh. Lời yêu thương từ thập giá hôm nào anh đã học, nay vang lên trong tâm trí anh. Lòng hận thù bị phá tan. Bước chân sắp ra đi để trả thù, để giết người, phút chốc, anh đã quì gối trên sàn nhà, mắt đăm đăm nhìn tượng Chúa, anh thưa:
“Lạy Chúa, xin giúp con biết tha thứ như Chúa đã tha cho con. Xin cho con thực hiện lời Chúa truyền là: anh em hãy yêu cả kẻ thù”. Chưa bao giờ anh thấy lời Chúa sống trong anh như hôm nay, như chính giây phút giằng co khốc liệt này. Nhưng cuối cùng lời Chúa đã giữ anh thoát tai họa và chết chóc.
Lời Chúa là chân lý. Lời Chúa là tình thương. Tất cả những lời mà Chúa trao ban cho chúng ta là để khi đón nhận thì được sống đời đời. Chúng ta giữ hay không giữ cũng không thêm, không bớt gì cho vinh quang Chúa. Nhưng sẽ liên hệ đến vận mệnh của mỗi người chúng ta. Tuân giữ thì được sống. Khước từ là chết.
Lạy Chúa, nếu có bao lần thất bại trong đời, nếu có bao tội con phạm, tất cả, là do con không còn giữ lời Chúa. Anh thanh niên kia đã được lời Chúa cứu thoát cả xác lẫn hồn. Xin cho mỗi người trong gia đình và cộng đoàn chúng con, biết để tâm suy gẫm học hỏi và nhất là quyết thực hành lời Chúa dạy chúng con, để lời Chúa luôn gìn giữ chúng con trong sự sống ơn thánh. Amen.
GKGĐ Giáo Phận Phú Cường
SUY NIỆM 2
Trong cuộc đối thoại với những người Do Thái, Chúa Giêsu càng muốn mạc khải cho biết thân thế của Ngài là ai? Về nếp sống phải có của những ai tin nhận Ngài: “Ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết”. Trong cái nhìn phàm trần, ỷ lại vào kiến thức cũng như kinh nghiệm sống của mình, những người Do Thái không thể nào nhìn nhận thực thể của Chúa: “Ông là ai? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?”
Thật là quá lắm đối với quan điểm hiểu biết phàm trần của họ: “Ông này quả thật là bị quỉ ám”. Một vị Thiên Chúa đã bị con người bôi nhọ chụp mũ. Bởi vì con người dễ dàng tin theo những sự thật khác xuôi tai hơn là sự thật của Chúa. Vả lại, sự thật của Chúa rất đòi hỏi, đòi buộc con người phải từ bỏ nếp sống cũ và tội lỗi, những mưu tính vụ lợi cho các nhân, những ganh tị, ham quyền, ham danh vọng.
Đây không phải là lần duy nhất Đức Giêsu cho biết khả năng “không bao giờ phải chết” của những ai tin vào Người, tuân giữ lời Người (x. Ga 11,26). Đã không bắt được ý nghĩa “tự do/nô lệ” trong phần trước của diễn từ này, những người Do Thái tiếp tục bắt hụt ý nghĩa của “sống/chết” mà Đức Giêsu muốn vén mở. Và một lần nữa, chính não trạng tự mãn và ỷ lại đã giam hãm họ trong ngục tù u minh: “Bây giờ chúng tôi biết chắc là ông bị quỉ ám. Ông Ápraham đã chết, các ngôn sứ cũng đã chết… Ông tự coi mình là ai?” Họ không thấy được cái “chết” có ý nghĩa nào khác hơn là cái chết thể lý ở cuối đường đời của mỗi người – và vì thế cũng chẳng có được ý niệm gì về sự sống tâm linh, về đời sống vĩnh cửu…
Nhiều người thời nay cũng không thể chấp nhận sự thật về Chúa Giêsu. Họ không tin Ngài là Đấng Cứu Thế, càng không tin Ngài là Con Thiên Chúa. Bởi vì họ đã có quá nhiều thành kiến về đạo, trong đó cũng có những thành kiến do những kẻ có đạo tạo nên. Mỗi người hãy tự kiểm điểm xem có khi nào vô tình mình khiến người ta có thành kiến với Chúa và với Giáo Hội không?
Lời Chúa Giêsu khi nói với những người Do-thái lúc bấy giờ đã làm tăng thêm sự bất mãn của họ. Nhưng đối với chúng ta hôm nay là những người đã tin và nhận ra lời của Chúa chính là lời hằng sống, Sự sống của con người trên trần gian này không phải là duy nhất là cùng tận cùng đích. Sự sống trên trần gian này chỉ là cơ hội để tôi luyện với bao thử thách, dẫn bước tiến vào vĩnh cửu. Chỉ những ai tin và giữ lời của Chúa Giêsu dạy, mới hiểu biết về Thiên Chúa, về thân xác phục sinh. Bởi vì Ngài là Đấng từ trời mà đến, Ngài là Đấng duy nhất biết về Chúa Cha. Ngài là Đấng duy nhất vâng lời Chúa Cha. Khi chúng ta nhìn vào cách sống, cách phục vụ của Ngài chúng ta sẽ nhận ra Thánh ý của Thiên Chúa để chúng ta sống và được sống.
Thiên Chúa yêu thương những ai tuân giữ lời Người, Người không những yêu, mà còn đến cư ngụ trong họ. Chúa Kitô mạc khải Thiên Chúa Ba Ngôi đến lập cư trong lòng họ (Ga 14, 23). Họ được nên một với Chúa trong ý nghĩ, hành động. Những điều Chúa muốn cũng là điều họ muốn. Mặc dù cuộc sống gặp nhiều gian chuân thử thách, họ cũng sẵn sàng chấp nhận. Mọi sự xảy đến, đều trở nên tốt lành cho những người yêu mến Chúa. Tình yêu luôn phải được chứng minh bằng hành động, bằng những hy sinh ngay cả đến mất tính mạng, như các thánh đã trở nên chứng nhân cho tình yêu Thiên Chúa.
Người tuân giữ Lời Chúa là người mến yêu Chúa, họ luôn muốn đáp lại tình yêu Chúa đã chọn gọi, họ sống hiệp thông và lưu lại trong tình yêu Chúa, họ muốn tuân giữ Lời Người, sống theo đường lối của Người và Người sẽ ra tay bênh đỡ họ (TV 37, 5). Họ như những người con ngoan vâng lời, làm theo những điều cha mẹ dạy bảo.
Những người con ấy không khi nào bị cha mẹ ruồng bỏ, trái lại, họ được ấp ủ, thương yêu và giáo dục để trở nên những người tốt. Mặc dù cha mẹ phải vất vả, lam lũ, ngay cả đến phải mất mạng sống để cho con mình được sống. Cũng thế, Thiên Chúa dựng nên con người và muốn cho họ hưởng hạnh phúc với Người. Người luôn khát khao mong mỏi và chờ đợi họ trở nên hoàn thiện. Ngài chuẩn bị cho họ từ thuở đời đời. Mỗi người sinh ra đều nằm trong tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.