Dẫu rằng nhóm Sađốc không tin vào cuộc sống đời sau, nhưng qua lời lẽ của họ, người ta thấy họ có một quan niệm hết sức vật chất về cuộc sống ấy: ở đời sau người ta cũng cưới vợ lấy chồng sinh con và hưởng thụ tất cả những lạc thú như đời này.
Trong cựu ước đã có niềm tin về sự sống lại cá nhân nhất là những người tuẫn giáo trong Israel. Niềm tin những người chết sống lại trước thời gian bị lưu đầy khởi đi từ kinh nghiệm về sự phục hoạt của dân Israel và phát xuất từ xác tín là liên hệ với Thiên Chúa nơi người công chính không thể bị phá hủy, vì các ngài đã hi sinh mạng sống để trung thành với Thiên Chúa. Ngài không thể để họ chết đi. Tuy nhiên biến cố Chúa Giêsu sống lại củng cố niềm xác tín vào sự sống lại của những người đã chết.
Việc sống lại của thân xác là sự sáng tạo mới hoàn toàn là tác phẩm của quyền năng Thiên Chúa và giống như một sự sinh sản. Theo Anastase tu viện trưởng núi Sinai vào năm 700 trong bài giảng về sự sống lại thì : Nếu chương trình cứu độ chưa hoàn tất, vì con người luôn chết đi và thân thể họ luôn tan rữa khi họ chết, thì đó không phải là lý do cho ta không tin. Chúng ta đã nhận lãnh trước những điều tốt lành Chúa đã hứa nơi con người trưởng tử, nhờ người ta được mang lên trời và chia xẻ ngai tòa với Ðấng đã mang ta lên cao như thánh Phaolô nói : Với Ngài ngài đã làm cho ta sống lại, với ngài Ngài đã cho ta hiển trị trên trời với Chúa Kitô Giêsu.
Sự phục sinh của Chúa Kitô cho thấy tình yêu Chúa Cha mạnh mẻ, trung thành và không gì có thể chuyển lay. Ðó là công việc của Chúa Thánh Thần tiếp tục kết hợp mật thiết với Cha và Con ngay trong khi Chúa Giêsu chịu chết và chịu khổ hình. Thánh Linh được ban chonhững người chịu phép rửa và thêm sức : nếu Thánh Linh đã phục sinh Chúa Kitô từ cõi û chết hiện diện trong anh em, Ðấng đã phục sinh Chúa Kitô cũng ban sự sống cho thân xác hay chết của anh em nhờ Thánh Thần ngự trong anh em. (Rm 8,11).
Thời Chúa Giêsu, phái Sađốc cũng không tin có sống lại. Họ dựa vào một khoản luật của Môsê để đặt ra một câu chuyện lố bịch chế diễu Chúa Giêsu. Khoản luật đó là: Nếu một người đàn ông có vợ nhưng chưa có con mà bị chết, thì một trong các anh em trai của người chết ấy phải cưới lấy người vợ góa. Khi sinh ra đứa con đầu tiên thì phải coi đứa con đó là con của người đàn ông quá cố. Mục đích của luật này là để cho người quá cố không bị tuyệt tự, nhưng vẫn có con lưu truyền nòi giống cho mình.
Chúa Giêsu xác nhận sự sống lại của con người từ cỏi chết, nhưng không nói rõ trên thực tế sẽ xảy ra như thế nào, mà chỉ nhắc nhớ chúng ta là đối với con người không phải chỉ có những thực tại mà kinh nghiệm con người có thể kiểm chứng được.
Người chỉ đưa ra lý chứng, để bác bỏ tư tưỏng hạn hẹp của nhóm Sadducei, là cuộc sống tương lai không phải chỉ là cuộc sống trần thế kéo dài thêm trong thế giới của đời sống bất diệt, bằng cách xác nhận rằng người sống lại không cưới vợ lấy chồng và cũng không bao giờ chết nữa
Phái Sađốc đã căn cứ vào khoản luật này và đặt ra một thí dụ: gia đình kia có 7 anh em trai, người thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con, người thứ hai lấy người vợ góa đó nhưng cũng chết không con, tới người thứ 3, thứ tư, năm, sáu bảy đều lần lượt lấy người vợ góa đó và cũng đều chết mà không có con. Vậy khi sống lại thì người đàn bà này sẽ là vợ của ai? Ta thấy mục đích của phái Sađốc là mỉa mai cho rằng sống lại là việc phi lý, vì nếu có sống lại thì chẳng lẽ người đàn bà ấy có thể là vợ chung của tập thể 7 anh em kia sao?
Trong câu trả lời, Chúa Giêsu vừa xác nhận có cuộc sống đời sau, vừa cho biết ý nghĩa của cuộc sống ấy: Đời sau người ta sẽ bất tử, do đó không cần lưu truyền nói giống, cho nên cũng không cần cưới vợ lấy chồng; Hạnh phúc duy nhất và cũng là quan tâm duy nhất của người sống đời sau là được ở gần Chúa để phụng thờ Chúa, như các thiên thần vậy.
Sự phục sinh của Chúa Kitô cho thấy tình yêu Chúa Cha mạnh mẻ, trung thành và không gì có thể chuyển lay. Ðó là công việc của Chúa Thánh Thần tiếp tục kết hợp mật thiết với Cha và Con ngay trong khi Chúa Giêsu chịu chết và chịu khổ hình. Thánh Linh được ban chonhững người chịu phép rửa và thêm sức : nếu Thánh Linh đã phục sinh Chúa Kitô từ cõi û chết hiện diện trong anh em, Ðấng đã phục sinh Chúa Kitô cũng ban sự sống cho thân xác hay chết của anh em nhờ Thánh Thần ngự trong anh em. (Rm 8, 11).
Thế giới vĩnh hằng không phải là thế giới trần gian kéo dài để tiếp nhận con người từ cõi chết sống lại. Cõi Vĩnh Hằng là một thế giới hoàn toàn mới với hạnh phúc vô biên vượt qua thứ hạnh phúc dục vọng phàm phu của kiếp người trần thế. Thế giới ấy là “Trời mới Đất mới” mà những con người đã được thanh luyện và sống lại trong Đức Kitô mới hiểu được và vào được. “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh Giêrusalem mới, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm đến đón tân lang. Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh. 21,1-4).
Những điều cũ đã biến mất, nên không có sự tồn tại của câu chuyện “người đàn bà có bảy đời chồng” hay những “chuyện cũ” tương tự. Tất cả đã trở nên tinh tuyền trong Đức Kitô.Và tất cả chỉ còn là niềm hạnh phúc vô tận trong Tình Yêu Thiên Chúa. “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người”. (Kh.7,14).
Lúc chết sự hiện hữu của mỗi người được đặt dưới ánh sáng của Thiên Chúa, soi sáng toàn thể cuộc sống. Ðó là phán xét riêng. Sự phán xét riêng này dành cho mỗi người ngay sau khi chết, không đợi đến ngày tận thế. Ðiều này qui định tình trạng giữa cái chết và ngày tận thế ngày toàn thể nhân loại sống lại. Mỗi người đều được Chúa soi sáng đối diện với chân lý. Sự phán xét cứu thoát đối với những người đã chấp nhận lời Chúa Kitô (Ga 12,46-48), cho những người đã làm lành và phán xét luận phạt cho những ai đã làm dữ (2 Cr 5,10) không có gì là thiên lệch và cho thấy giá trị của mỗi cuộc sống.
Niềm tin và hi vọng Kitô giáo không thể không có những hậu quả trong cách thế đối diện và đến gần cái chết. Phụng vụ diễn tả : Ðối với các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chứ không mất đi và khi nơi nương náu ở trần gian bị hủy diệt tiêu tan thì có chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên trời.
Huệ Minh